Bệnh võng mạc đái tháo đường là gì? Các công bố khoa học về Bệnh võng mạc đái tháo đường

Bệnh võng mạc đái tháo đường, còn được gọi là retinopathy đái tháo đường, là một biến chứng của bệnh đái tháo đường. Khi đường huyết cao trong thời gian dài, nh...

Bệnh võng mạc đái tháo đường, còn được gọi là retinopathy đái tháo đường, là một biến chứng của bệnh đái tháo đường. Khi đường huyết cao trong thời gian dài, những mao mạch nhỏ trong võng mạc (vùng giữa mắt) bị tổn thương. Vật chất bị tổn thương tích tụ và hình thành các sợi sợi xơ, gây nghẽn và suy yếu khả năng cung cấp máu cho võng mạc.

Bệnh võng mạc đái tháo đường là nguyên nhân hàng đầu của mù lòa ở người trưởng thành, và gây ra tối hay mờ mắt, mờ màu, khó nhìn trong việc đọc, và thậm chí có thể dẫn đến mất khả năng nhìn rõ ràng hoàn toàn. Bệnh thường xảy ra ở cả hai mắt và thường tiến triển chậm nhưng đều là một tác động nghiêm trọng của đái tháo đường đối với thị giác.

Điều quan trọng là kiểm soát cẩn thận lượng đường huyết và chăm sóc sức khỏe tổng thể để hạn chế tác động của đái tháo đường lên boolean dis thức. Điều trị chuyên môn của bác sĩ mắt sẽ có thể bao gồm quang cảnh võng mạc (laser) hoặc phẫu thuật.
Bệnh võng mạc đái tháo đường là kết quả của việc tổn thương mao mạch và các mạch máu nhỏ trong võng mạc do tình trạng đường huyết cao kéo dài trong khi mắt không được cung cấp đủ oxy và dưỡng chất. Các yếu tố góp phần gây tổn thương bao gồm:

1. Mạch máu bị sự chảy máu: Sự gia tăng áp lực chảy máu trong mạch máu nhỏ có thể làm hỏng các mao mạch chứa máu trong võng mạc. Khi mao mạch bị vỡ, chất lỏng và máu có thể chảy vào vùng thấm nổi lên gây ra hình thành các điểm lỏng, sưng và làm suy yếu chức năng thị giác.

2. Thay đổi mạch máu: Đối với những người mắc bệnh đái tháo đường, mao mạch có thể bị hình thành không bình thường hoặc bị thu hẹp, gây ra mất cân bằng cung cấp máu đến võng mạc. Điều này dẫn đến thiếu oxy và dưỡng chất cần thiết để duy trì sự hoạt động bình thường của võng mạc.

3. Hình thành các sợi xơ: Khi mao mạch bị tổn thương, cơ thể sẽ cố gắng sửa chữa và tái tạo các mạch máu bằng cách tạo ra các sợi xơ. Tuy nhiên, việc hình thành quá nhiều sợi xơ có thể gây nghẽn và suy yếu khả năng cung cấp máu cho võng mạc, dẫn đến suy giảm thị lực.

4. Sự hình thành mạch máu không đúng: Trong một số trường hợp, bệnh võng mạc đái tháo đường có thể dẫn đến sự hình thành mạch máu không đúng, gọi là neovascularization, trong đó các mạch máu mới hình thành. Tuy nhiên, những mạch máu này thường không ổn định và dễ bị vỡ, gây chảy máu trong võng mạc và gây thêm tổn thương.

Để chẩn đoán và điều trị bệnh võng mạc đái tháo đường, cần thăm khám và được tư vấn bởi bác sĩ mắt chuyên môn. Thông thường, các phương pháp điều trị như quang cảnh võng mạc hoặc phẫu thuật có thể được áp dụng nhằm điều trị các tổn thương mạch máu và khôi phục chức năng thị giác. Tuy nhiên, điều quan trọng là kiểm soát tốt lượng đường huyết và chăm sóc tổng thể sức khỏe để ngăn chặn sự tiến triển và tái phát của bệnh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh võng mạc đái tháo đường":

Tổng Quan Toàn Cầu về Tỷ Lệ và Các Yếu Tố Nguy Cơ Chính của Bệnh Võng Mạc Đái Tháo Đường Dịch bởi AI
Diabetes Care - Tập 35 Số 3 - Trang 556-564 - 2012
MỤC TIÊU

Để kiểm tra tỷ lệ toàn cầu và các yếu tố nguy cơ chính của bệnh võng mạc đái tháo đường (DR) và bệnh võng mạc đái tháo đường đe dọa thị lực (VTDR) ở những người bị tiểu đường.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP

Một phân tích tổng hợp sử dụng dữ liệu tham gia cá nhân từ các nghiên cứu dân số trên toàn thế giới đã được thực hiện. Một đánh giá tài liệu hệ thống đã được tiến hành để xác định tất cả các nghiên cứu dân số trong các quần thể chung hoặc cá nhân bị tiểu đường mà đã xác định được DR từ các hình ảnh võng mạc. Các nghiên cứu cung cấp dữ liệu cho các điểm cuối DR, bao gồm bất kỳ DR nào, DR phát triển, phù hoàng điểm do tiểu đường, và VTDR, cũng như các yếu tố nguy cơ hệ thống chính. Các ước tính tỷ lệ tổng hợp được chuẩn hóa theo độ tuổi trực tiếp theo dân số thế giới năm 2010 trong độ tuổi từ 20–79.

#Bệnh võng mạc đái tháo đường #Yếu tố nguy cơ #Tỷ lệ mắc #Phân tích tổng hợp #Dân số toàn cầu #Thị lực
Căng Thẳng Oxid hóa và Bệnh Võng Mạc Đái Tháo Đường Dịch bởi AI
Journal of Diabetes Research - Tập 2007 Số 1 - 2007

Chuyển hóa oxy là rất quan trọng để duy trì sự sống hiếu khí, và sự cân bằng tế bào bình thường hoạt động trên một cân bằng tinh tế giữa việc hình thành và loại bỏ các gốc oxy phản ứng (ROS). Căng thẳng oxy hóa, hậu quả tế bào của sự sản xuất quá mức ROS và sự ức chế việc loại bỏ ROS bởi hệ thống phòng thủ chống oxy hóa, được cho là liên quan đến sự phát triển của nhiều bệnh, bao gồm bệnh Alzheimer và bệnh tiểu đường cùng với các biến chứng của nó. Bệnh võng mạc, một biến chứng vi mạch làm suy yếu do bệnh tiểu đường, là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa có được ở các nước phát triển. Nhiều sự bất thường chuyển hóa do bệnh tiểu đường được cho là liên quan đến sự phát triển của bệnh này, và có vẻ như bị ảnh hưởng bởi căng thẳng oxy hóa gia tăng; tuy nhiên, cơ chế chính xác của sự phát triển này vẫn chưa được làm rõ. Nồng độ superoxide tăng được coi là một liên kết nguyên nhân giữa glucose cao và các bất thường chuyển hóa khác quan trọng trong sinh bệnh học của các biến chứng do tiểu đường. Các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra rằng các chất chống oxy hóa có tác dụng có lợi đối với sự phát triển của bệnh võng mạc, nhưng kết quả từ các thử nghiệm lâm sàng rất hạn chế thì có phần mơ hồ. Mặc dù các chất chống oxy hóa đang được sử dụng cho các bệnh mãn tính khác, nhưng cần có các thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát để điều tra những tác động có lợi tiềm năng của các chất chống oxy hóa trong sự phát triển của bệnh võng mạc ở bệnh nhân tiểu đường.

#Căng thẳng oxy hóa #Bệnh võng mạc #Bệnh tiểu đường #Chất chống oxy hóa #Sự phát triển bệnh
Dân tộc, Chủng tộc và Các Yếu Tố Liên Quan Đến Độ Nặng Bệnh Võng Mạc Tại Thời Điểm Xuất Nhập Trong Thử Nghiệm Đái Tháo Đường Của Bộ Cựu Chiến Binh Dịch bởi AI
Diabetes Care - Tập 28 Số 8 - Trang 1954-1958 - 2005

MỤC TIÊU— Nhóm đối tượng trong Thử nghiệm Đái tháo đường của Bộ Cựu chiến binh (VADT) có khoảng 20% là người gốc Tây Ban Nha và 20% là người Mỹ gốc Phi, tạo ra một cơ hội độc đáo để nghiên cứu sự khác biệt giữa các dân tộc trong bệnh võng mạc.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP— Các phân tích cắt ngang trên bảy hình ảnh đáy mắt stereo ở 1.283 bệnh nhân được báo cáo ở đây. Điểm số võng mạc tiểu đường được phân thành bốn nhóm theo mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng: không có (10–14), võng mạc tiểu đường không phát triển tối thiểu (NPDR) (15–39), NPDR từ vừa đến nặng (40–59), và võng mạc tiểu đường phát triển (60+). Bốn nhóm này cũng được chia thành hai nhóm: không có hoặc tối thiểu (10–39) và võng mạc tiểu đường từ vừa đến nặng (40+).

KẾT QUẢ— Tỷ lệ điểm số võng mạc tiểu đường >40 cao hơn ở người gốc Tây Ban Nha (36%) và người Mỹ gốc Phi (29%) so với người da trắng không gốc Tây Ban Nha (22%). Sự khác biệt giữa người gốc Tây Ban Nha và người da trắng không gốc Tây Ban Nha là có ý nghĩa (P < 0.05). Tương tự, tỷ lệ điểm số võng mạc tiểu đường >40 cao hơn một cách đáng kể ở người Mỹ gốc Phi so với người da trắng không gốc Tây Ban Nha (P < 0.05). Những khác biệt này không thể giải thích bằng sự mất cân bằng trong các yếu tố rủi ro truyền thống như tuổi tác, thời gian mắc bệnh đái tháo đường, HbA1c (A1C), và huyết áp. Điểm số độ nặng của bệnh võng mạc tiểu đường cũng có sự liên quan đáng kể với việc tăng số năm mắc bệnh, A1C, huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương, độ tiện thể microalbumin, fibrinogen, và tỷ lệ bệnh nhân bị cắt cụt chi. Không có mối quan hệ nào giữa độ nặng của bệnh võng mạc và tỷ lệ người bị đột quỵ hoặc thực hiện các thủ thuật tái thông tim. Có một mối quan hệ nghịch kỳ giữa độ nặng của bệnh võng mạc và cholesterol toàn phần, triglycerides, và ức chế hoạt động plasminogen-1, cũng như với lịch sử hút thuốc. Điểm số võng mạc tiểu đường không có mối liên quan với tuổi tác.

KẾT LUẬN— Ngoài nhiều mối liên hệ đã được biết đến với bệnh võng mạc, một tần suất cao hơn của bệnh võng mạc tiểu đường nặng được phát hiện ở bệnh nhân gốc Tây Ban Nha và Mỹ gốc Phi tại thời điểm nhập VADT mà không được giải thích bởi các yếu tố rủi ro truyền thống cho bệnh võng mạc tiểu đường, và những khác biệt sắc tộc đáng kể này vẫn chưa được giải thích.

Vai trò của Bác sĩ Đái tháo đường trong Đánh giá Bệnh võng mạc Đái tháo đường Dịch bởi AI
Diabetes Care - Tập 14 Số 1 - Trang 26-33 - 1991
Mục tiêu

Đánh giá khả năng của các bác sĩ đái tháo đường trong việc sàng lọc bệnh nhân đái tháo đường mắc bệnh võng mạc đái tháo đường.

Thiết kế Nghiên cứu và Phương pháp

So sánh việc kiểm tra mắt do các bác sĩ đái tháo đường thực hiện bằng kính soi đáy mắt trực tiếp qua đồng tử chưa giãn và do các bác sĩ nhãn khoa thực hiện qua đồng tử đã giãn bằng cách chụp ảnh võng mạc lập thể bảy trường (tiêu chuẩn vàng). Nghiên cứu bao gồm 67 bệnh nhân ngoại trú mắc bệnh đái tháo đường phụ thuộc insulin và không phụ thuộc insulin đến khám tại phòng khám đái tháo đường.

Kết quả

Dựa vào hình ảnh chụp võng mạc, bệnh nhân được phân loại là không hoặc không đáng kể (30%), tối thiểu (31%), trung bình (24%) hoặc nặng (15%) bị bệnh võng mạc. Các bác sĩ đái tháo đường và bác sĩ nhãn khoa thực hiện tương tự trong khả năng phân loại mức độ nghiêm trọng của bệnh võng mạc đái tháo đường một cách chính xác. Khi không có hoặc bệnh võng mạc không đáng kể (chỉ có các vi phình mạch đơn lẻ) được phát hiện qua kiểm tra, khả năng cao là không phát hiện bệnh võng mạc có ý nghĩa lâm sàng khi chụp ảnh võng mạc (&lt; 5%). Ngược lại, nếu phát hiện nhiều hơn các vi phình mạch đơn lẻ trong kiểm tra, tất cả các người kiểm tra đều bỏ sót các tổn thương nặng hơn được phát hiện qua chụp ảnh võng mạc. Bệnh nhân có thị lực điều chỉnh không tốt hơn 20/30 có khả năng cao (100%) mắc bệnh võng mạc từ mức độ trung bình đến nặng.

ĐẶC ĐIỂM BỆNH VÕNG MẠC ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm bệnh võng mạc đái tháo đường trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại BV Trung Ương Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành trên 395 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 được điều trị ngoại trú tại BV Trung Ương Thái Nguyên. Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Thời gian mắc bệnh của bệnh nhân trong nghiên cứu chủ yếu là từ 10-20 năm (chiếm 58,5%), thị lực sau chỉnh kính đạt mức tốt chiếm 61,5%, mức giảm đạt 15,4%, và có 4,4% thị lực ở mức mù, có 73/395 trường hợp có tổn thương VM do đái tháo đường (chiếm 18,5%) trong đó các hình thái tổn thương hay gặp nhất là vi phình mạch, xuất tiết võng mạc và xuất huyết võng mạc, 63% trường hợp có tổn thương võng mạc ở giai đoạn chưa tăng sinh và 37% tổn thương võng mạc tăng sinh. Kết luận: Có 18,5% bệnh nhân có bệnh võng mạc đái tháo đường trong đó có 63% tổn thương võng mạc chưa tăng sinh và 37% tổn thương võng mạc tăng sinh.
#Thị lực #bệnh võng mạc đái tháo đường #đái tháo đường
PHÂN LOẠI GIAI ĐOẠN BỆNH VÕNG MẠC ĐÁI THÁO ĐƯỜNG DỰA TRÊN ẢNH CHỤP ĐÁY MẮT KĨ THUẬT SỐ TIÊU CHUẨN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá giai đoạn bệnh võng mạc đái tháo đường (ĐTĐ) dựa trên ảnh chụp võng mạc kĩ thuật số tiêu chuẩn. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên bộ dữ liệu 400cặp ảnh chụp võng mạc kỹ thuật số tiêu chuẩn của 200 bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định ĐTĐ, dựa vào kết quả ảnh chụp nhóm nghiên cứu tiến hành phân loại giai đoạn bệnh theo phân loại quốc tế bệnh võng mạc ĐTĐ. Kết quả: Trong 400 ảnh từ bộ dữ liệu của 200 bệnh nhân được chụp ảnh võng mạc hai mắt, số mắt không có dấu hiệu bệnh VMĐTĐ (R0) trên ảnh chụp là nhiều nhất 241 mắt, chiếm 60,3%; bệnh VMĐTĐ giai đoạn chưa tăng sinh – nhẹ (R1) chiếm 8%; bệnh VMĐTĐ giai đoạn chưa tăng sinh – mức độ trung bình (R2) chiếm 18,3%; bệnh VMĐTĐ giai đoạn chưa tăng sinh – mức độ nặng (R3) chiếm 4,3%; bệnh VMĐTĐ giai đoạn tăng sinh (R4) chiếm 4% với 16 mắt; có 21 ảnh chụp không đạt tiêu chuẩn và không thể đánh giá được giai đoạn. Kết luận: Tổn thương võng mạc của bệnh nhân có bệnh VMĐTĐ chủ yếu là ở giai đoạn R0 tức chưa có biểu hiện lâm sàng, ảnh chụp đáy mắt kỹ thuật số tiêu chuẩn có thể chẩn đoán, lưu trữ, phân chia gia đoạn giúp theo dõi định kì bệnh võng mạc ĐTĐ, đóng vai trò rất quan trọng trong dự phòng và ngăn ngừa tiến triển của bệnh cũng như phát hiện và điều trị sớm khi bệnh ở các giai đoạn khác nhau tránh  biến chứng nặng tại mắt.
#Bệnh võng mạc đái tháo đường #giai đoạn #ảnh chụp đáy mắt
ĐẶC ĐIỂM TỔN THƯƠNG VÕNG MẠC TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC PHÚC YÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 2 - 2021
Mục tiêu: 1, Mô tả đặc điểm lâm sàng của tổn thương võng mạc trên bệnh nhân bị bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) tại Bệnh viện đa khoa khu vực Phúc Yên.  2, Nhận xét một số yếu tố liên quan đến bệnh võng mạc đái tháo đường trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cưú mô tả cắt ngang trên 273 bệnh nhân ĐTĐ (546 mắt), thu thập các thông tin cơ bản (tuổi, giới, thời gian mắt ĐTĐ, typ ĐTĐ…), khám đáy mắt và chụp mạch huỳnh quang xác định tổn thương và giai đoạn bệnh võng mạc ĐTĐ. Kết  quả: tuổi bệnh nhân trung bình 61,6 ± 11,8 (17-89); thị lực giảm vừa chiếm chủ yếu 50% (273/546); tỷ lệ mắc bệnh võng mạc ĐTĐ chiếm 25,5% (139/546 mắt), trong đó giai đoạn chưa tăng sinh nhẹ là 21,2% (113 mắt), chưa tăng sinh vừa 0,9% (5 mắt), chưa tăng sinh nặng  0,7% (4 mắt) và tăng sinh  2,7% (15 mắt),  tỷ lệ phù hoàng điểm  6% (33 mắt); có mối liên quan chặt chẽ giữa bệnh võng mạc ĐTĐ với thời gian mắc bệnh ĐTĐ (p<0,001), với kiểm soát tốt đường máu (HbA1c<7) (p<0,05%). Kết luận: tỷ lệ mắc bệnh võng mạc ĐTĐ trên quần thể bệnh nhân ĐTĐ ở địa phương đáng chú ý, vì vậy việc khám sàng lọc định kỳ võng mạc trên bệnh nhân ĐTĐ là hết sức cần thiết.
#bệnh võng mạc đái tháo đường #bệnh đái tháo đường
KHẢO SÁT TỶ LỆ MỘT SỐ BIỂU HIỆN TỔN THƯƠNG MẮT Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ một số biểu hiện tổn thương mắt ở bệnh nhân (BN) đái tháo đường típ 2 (ĐTĐT2). Đối tượng và phương pháp: 395 BN ĐTĐT2 điều trị tại Bệnh viện Nội tiết trung ương được khảo sát một số biểu hiện tổn thương mắt dựa vào triệu chứng lâm sàng và soi đáy mắt. Những BN không soi được đáy mắt như đục thủy tinh thể (TTT) mức độ vừa đến nặng đã được loại trừ khỏi đối tượng nghiên cứu. Khám và soi đáy mắt xác định các triệu chứng lâm sàng, biểu hiện tổn thương do bác sĩ chuyên khoa mắt Bệnh viện Quân y 103 thực hiện. Kết quả: Bệnh võng mạc đái tháo đường (BVMĐTĐ) gặp 45,8%, chủ yếu là BVMĐTĐ không tăng sinh (90,6%),  phân bố ở cả 3 mức độ nhẹ, vừa, nặng trong đó mức độ nhẹ chiếm tỷ lệ cao nhất (43,9%). Khi soi đáy mắt phát hiện được nhiều tổn thương trong đó có một số biểu hiện gặp với tỷ lệ cao như vi phình mạch (42,3%), xuất tiết cứng (22,5%), xuất huyết trong võng mạc (22,0%). Đục TTT gặp với tỷ lệ cao (73,4%), trong đó đục vùng nhân chiếm tỷ lệ cao nhất (47,05%) sau đó đến vùng vỏ (25,69%), đục hỗn hợp (13,54%), đục bao sau chiếm tỷ lệ thấp nhất (4,51%). Kết luận: Ở BN ĐTĐT2 phát hiện nhiều tổn thương mắt trong đó đục TTT và BVMĐTĐ đều gặp với tỷ lệ cao. Nếu không có chống chỉ định thì soi đáy mắt vẫn là phương  pháp dễ thực hiện song phát hiện được nhiều tổn thương đảm bảo độ tin cậy.
#Đái tháo đường típ 2 #bệnh võng mạc đái tháo đường #đục thủy tinh thể
NGHIÊN CỨU TỔN THƯƠNG MẠCH MÁU VÕNG MẠC TRONG BỆNH VÕNG MẠC ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá các biến đổi của mạch máu võng mạc liên quan đến tình trạng đường huyết cao. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu gồm 2 nhóm: Nhóm chuột có nồng độ glucose máu bình thường và nhóm chuột gây tăng đường huyết bằng streptozotocin. Kỹ thuật phân lập mạch máu võng mạc giúp xác định các mạch máu không có tế bào và hiện tượng chết tế bào ngoại mạch. Bên cạnh đó, mạch máu võng mạc chuột được nhuộm miễn dịch huỳnh quang để đánh giá hiện tượng tăng tính thấm thành mạch. Kết quả: Số lượng mạch máu không có tế bào và hiện tượng chết tế bào ngoại mạch tăng rõ rệt ở nhóm chuột đường huyết cao. Ngoài ra, kỹ thuật nhuộm miễn dịch huỳnh quang cũng cho thấy sự tăng tính thấm thành mạch ở nhóm chuột tăng đường huyết so với nhóm chuột bình thường. Kết luận: Đường huyết cao gây tăng hiện tượng chết tế bào nội mô, tế bào ngoại mạch và tăng tính thấm thành mạch trong bệnh võng mạc đái tháo đường.
#Bệnh võng mạc đái tháo đường #tế bào mạch máu võng mạc #tính thấm thành mạch
NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA TỈ LỆ BỆNH LÝ VÕNG MẠC MẮT VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 TẠI TỈNH THÁI BÌNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 512 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Tìm hiểu mối liên quan giữa tỉ lệ biến chứng võng mạc mắt đái tháo đường (VMĐTĐ) với một số yếu tố nguy cơ về tuổi, giới, nhân chủng và thời gian mắc bệnh để giúp quản lý, can thiệp sớm biến chứng. Phương pháp và kết quả: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu 145 người đái tháo đường, tuổi trung bình 60,88±8,11. Kết quả cho thấy tỷ lệ mắc bệnh VMĐTĐ ở nữ là (48,1%) cao hơn so nam giới (39,6%) p>0,05. Không cho thấy mối liên quan giữa tỷ lệ mắc bệnh VMĐTĐ với khu vực cư trú (nông thôn và thành thị) cũng như tình trạng học vấn của bệnh nhân. Có sự liên quan giữa tỉ lệ mắc bệnh VMĐTĐ với tuổi, bệnh nhân ≥ 60 tuổi nguy cơ mắc gấp 4,48 lần (95% Cl: 2,09-9.61, p<0,01). Tỷ lệ bệnh VMĐTĐ tăng lên theo thời gian mắc bệnh; trong 5 năm đầu tỷ lệ mắc bệnh là 14,3%, 5-10 năm tiếp theo là 54,1%, trên 10 năm là 64,9%, sự khác biệt với p<0,05. Trong đó nguy cơ tổn thương võng mạc ở nhóm bệnh nhân mắc bệnh từ 5-10 năm gấp 4,14  lần và nhóm trên 10 năm gấp 9,97 lần so với bệnh nhân trong nhóm có thời gian mắc bệnh dưới 5 năm. Kết luận: Thời gian mắc bệnh càng dài nguy cơ mắc bệnh VMĐTĐ càng cao. Chưa thấy có mối liên quan giữa giới tính, khu vực cư trú, trình độ học vấn với tình trạng mắc bệnh VMĐTĐ.
#Đái tháo đường #biến chứng #Bệnh lý võng mạc mắt #yếu tố nguy cơ
Tổng số: 15   
  • 1
  • 2